Có thể tìm ra lịch sử của mỗi từ thông qua các tiền tố, hâu tố hoặc các từ gốc ban đầu cấu tạo nên nó. Khi bạn nói biết một điều gì đó tức là bạn hiểu một khía cạnh chung chung nào đó của những sự việc mà bạn đã trải nghiệm. Vì thế, bạn có thể sử dụng nó như một công cụ trợ giúp việc đọc.
Bạn sẽ phân loại được một cuốn sách mà không phải đọc quá kỹ nếu chú ý đến câu chữ và ghi nhớ những mục sách cơ bản trong đầu. Lý do có thể vì độc giả đã có những tiền kiến nhất định về cách tiếp cận vấn đề của tác giả cũng như những kết luận cuối cùng ông ta đưa ra. Khi cuốn Vũ trụ và Tiến sĩ Einstein được viết ra mang tính lý thuyết (cho độc giả đại chúng) về lịch sử nghiên cứu nguyên tử, mọi người đã biết nhiều về những hiểm họa gắn liền với vật lý nguyên tử xuất phát từ việc khám phá bom nguyên tử.
Việc đưa ra nhận xét này sẽ là vô nghĩa trừ phi người đọc xác định được chính xác mức độ chưa hoàn chỉnh của tác giả bằng sự nỗ lực của bản thân độc giả hoặc từ những thông tin của các cuốn sách khác. Nhưng hầu hết những điều đã nói về việc đọc phân tích đều có thể áp dụng vào đọc đồng chủ đề với một số sửa đổi nhất định cho phù hợp sẽ được trình bày trong chương cuối cuốn sách này. Đọc lướt hay đọc để chuẩn bị luôn luôn là một ý tưởng hay, và điều này thường cần thiết khi bạn không biết liệu cuốn sách mình đang cầm có đáng đọc không.
Nếu bạn không hiểu bất cứ từ nào trong định nghĩa, bạn sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của từ gọi tên vật được định nghĩa. Chúng tôi ủng hộ nhận định cho rằng đa số mọi người đáng lẽ phải đọc nhanh hơn tốc độ họ vẫn đọc. Từ đó, ta có thể rút ra kết luận ngẫu nhiên rằng nếu không có loại vật chất nào tồn tại mà không có các bộ phận, thì một điểm, theo định nghĩa của Euclid, không phải là vật chất.
Bạn nên nhớ những kinh nghiệm để rút ra các giả thuyết đó không giống những kinh nghiệm đặc biệt của các nhà khoa học mà là kinh nghiệm chung của mọi người. Những đánh giá về tính chân thực của một tiểu thuyết hầu như dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm chung kinh nghiệm sống của rất nhiều người. Trong một số cuốn sách, những nhận định chủ đạo được trình bày thành câu có vị trí đặc biệt và kiểu chữ nổi bật.
Khi bị lão hoá, trí tuệ mới mất đi sức mạnh tăng kỹ năng và hiểu biết. Sự nghịch lý mang tính tò mò luôn xuất hiện trong quá trình đọc đồng chủ đề. Quy tắc 7: TÌM RA CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN TRONG MỘT CUỐN SÁCH DỰA TRÊN MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC CÂU.
Nhưng việc đi sâu nghiên cứu vấn đề sẽ giúp bạn sớm nhận ra các nhà văn coi tinh túy của tình yêu mang tính nhận thức hơn là ham muốn. Hiếm có tác giả nào cưỡng lại được sự cám dỗ của việc tóm lược lại những gì họ cho là mới và quan trọng trong tác phẩm vào những trang này. Không chỉ nhà thơ hiện đại mới khó đọc.
Như vậy, họ đã hành động mà không cần phải suy nghĩ. Những giả thuyết như thế được rút ra trực tiếp từ kinh nghiệm chứ không phải được chứng minh từ những giả thuyết khác. Nó có ý nghĩa và sức mạnh đối với tất cả mọi người.
Vấn đề thứ hai là sử dụng từ đồng nghĩa. Vấn đề thứ hai là sử dụng từ đồng nghĩa. Tiêu biểu chỉ có thể kể đến các vở bi kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripedes, các vở kịch của Shakespeare, các vở hài kịch của Moliere và một vài tác phẩm của số ít nhà văn hiện đại.
Hệ thống hoá triết học: Vào thế kỷ XVII, một kiểu trình bày khác của triết học ra đời nhờ công của hai nhà triết học nổi tiếng là Descartes và Spinoza. Bạn có thể đọc nhiều thể loại sách khác nhau nên bạn phải thật linh hoạt và có những thay đổi phù hợp khi áp dụng các quy tắc đó. Ví dụ, các câu hỏi về đặc điểm của ý tưởng đang được xem xét gợi lên rất nhiều vấn đề liên quan.